TRUNG TÂM SIM PHONG THỦY - SIM SỐ ĐẸP PHONG THỦY VIỆT NAM

Mẹ của học giả Nguyễn Hiến Lê

Vừa qua, về Phương Khê, Ba Vì, được nhà giáo Phùng Hoàng Anh đưa đi thăm quê hương và dòng họ của học giả Nguyễn Hiến Lê, tôi có may mắn được bà con trong họ cho xem cuốn gia phả do Nguyễn Hiến Lê soạn. Đây là lần đầu tiên tôi trông thấy thủ bút của ông. Dưới đây là những dòng ông viết về mẹ của mình:
.
"Thân mẫu tôi húy là Sâm, con giòng thứ cụ phủ Nguyễn Hữu Chước làng Hạ Đình (Hà Đông) mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ góa. Tính tình như đàn ông, nghèo mà không chịu nhờ cậy ai, quanh năm buôn bán để nuôi mẹ già và 4 con (vì bà ngoại tôi ở chung với chúng tôi).
.
Rất trọng sự học và lễ nghĩa của đạo Nho, mấy năm tôi ở Trung học thân mẫu tôi cho tôi về Phương Khê học thêm chữ Nho với bác Hai tôi “vì chẳng lẽ con nhà Nho mà không đọc được gia phả của tổ tiên”. Sở dĩ tôi thành nhà văn, một phần lớn nhờ công đó của người. Suốt đời vất vả cái vui duy nhất của người là thấy tôi thành tài”.

Trích Gia phả họ Nguyễn, do Nguyễn Hiến Lê soạn.

Cụ bà Nguyễn Thị Sâm - thân mẫu của Nguyễn Hiến Lê. Ảnh do dòng họ cung cấp.

Cụ Đặc Như - thân phụ của học giả Nguyễn Hiến Lê. Ảnh do con cháu trong dòng họ cung cấp.

Học giả Nguyễn Hiến Lê.

Nhà thờ dòng họ Nguyễn Hiến Lê ở Phương Khê.

Gia phả họ Nguyễn do Nguyễn Hiến Lê soạn

Trang Lời mở đầu Gia phả.


Nguyễn Hiến Lê viết về mẹ.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia ghi rằng:
 
Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) là một nhà văn, học giả, dịch giả, nhà giáo dục và hoạt động văn hóa độc lập, với 120 tác phẩm sáng tác, biên soạn và dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như giáo dục, văn học, ngữ học, triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế...
 
Trong Hồi ký của mình, Nguyễn Hiến Lê viết:
 
"...Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi (nhằm ngày 8 tháng 1 năm 1912). Đổi ra bát tự để lấy lá số Tử Bình hay Hà Lạc thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu".
 
Nguyễn Hiến Lê quê ở làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội. Xuất thân từ một gia đình nhà Nho, ông học tại Hà Nội, trước ở trường Yên Phụ, sau lên trường Bưởi.
 
Năm 1934, ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Hà Nội rồi vào làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam Bộ, bắt đầu quãng đời nửa thế kỷ gắn bó với Nam bộ, gắn bó với Hòn ngọc Viễn Đông.
 
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông thôi làm ở sở, đi dạy học ở Long Xuyên. Năm 1952 chuyển lên Sài Gòn mở nhà xuất bản và biên dịch sách, sáng tác, viết báo.
 
Những năm trước 1975 và cả trong thời gian sau này, Nguyễn Hiến Lê luôn là một cây bút có tiếng, viết miệt mài và là một nhân cách lớn.
 
Trong đời cầm bút của mình, đến trước khi mất, ông đã xuất bản được hơn một trăm bộ sách, về nhiều lĩnh vực: văn học, ngôn ngữ học, triết học, tiểu luận phê bình, giáo dục, chính trị, kinh tế, gương danh nhân, du kí, dịch tiểu thuyết, học làm người... Tính ra, số bộ sách của ông được xuất bản gần gấp 1,5 lần số tuổi của ông và tính từ năm ông bắt đầu có sách in (đầu thập niên 1950), trung bình mỗi năm ông hoàn thành ba bộ sách với 800 trang bản thảo có giá trị gửi tới người đọc.
 
Năm 1980 ông về lại Long Xuyên. Ông lâm bệnh và mất ngày 22 tháng 12 năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 73 tuổi.
 
Nguyễn Hiến Lê với sức làm việc đều đặn 13 tiếng đồng hồ mỗi ngày gồm 6 tiếng để đọc tài liệu và hơn 6 tiếng để viết. Thời gian biểu này được áp dụng một cách nghiêm ngặt không ai được vi phạm kể cả chính ông, nhờ vậy mà ông đã hoàn thành một khối lượng công việc, tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật đồ sộ.
 
Để hiểu thêm về Nguyễn Hiến Lê quý vị có thể đọc cuốn Hồi ký của ông.

Ghi thêm:

- Nhà giáo Phùng Hoàng Anh cho biết: Nguyễn Hiến Lê học chữ Hán với bác Hai trong 3 kỳ nghỉ hè các năm 1930, 1931 và 1932.

- Những năm 60, 70, chính quyền Sài Gòn tặng ông (cùng với Giản Chi) Giải thưởng Văn chương toàn quốc(1967) - Giải Nhất ngành biên khảo - và Giải tuyên dương sự nghiệp Văn hóa - Nghệ thuật (1973) với danh hiệu cao quý đương thời, cùng một ngân phiếu lớn (tương đương mấy chục lượng vàng). Ông đã công khai từ chối với lý do "dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh" và bản thân tác giả không dự giải. (Nguyễn Hiến Lê với sự nghiệp học thuật Việt Nam - Tuyển tập Nguyễn Hiến Lê, tập 1. Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006, tr. 40)
.


 
MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HỌC GIẢ NGUYỄN HIẾN LÊ
Giường ngủ đơn sơ của Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên
Ảnh: Nghê Dũ Lan (Nguồn: Nguyễn Hiến Lê - Cuộc đời & Tác phẩm, Nxb Trẻ, 2003)

Nhà nghỉ và làm việc Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên, bên trái là nhà cổ của bà Nguyễn Thị Liệp.
Trước dàn hoa thắp là tháp Nguyễn Hiến Lê (bị bụi kiểng che khuất)

Ảnh: Nghê Dũ Lan (Nguồn: Nguyễn Hiến Lê – Con người & Tác phẩm, Nxb Trẻ, 2003)
 
Bên trong nhà cũ của Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên:
Tranh thầy đồ dạy học và cặp liễn đem về từ biệt thự 12/3 Kỳ Đồng [Sài Gòn].
Cái võng vắt trên thành ghế cạnh bàn thờ xưa kia ông hay nằm đọc sách, nghỉ ngơi.
Ảnh: Nghê Dũ Lan (Nguồn: Nguyễn Hiến Lê – Con người & Tác phẩm, Nxb Trẻ, 2003)
 


Tại toà soạn Bách Khoa
Nguyễn Hiến Lê - cà vạt màu. Vi Huyền Đắc -cà vạt đen
(Nguồn: Nguyễn Hiến Lê Cuộc Đời & Tác Phẩm của Châu Hải Kỳ, Nxb Văn học, 1993, tr.60)



Tại toà soạn Bách Khoa, từ trái sang phải:
Lê Thanh Thái, Lê Ngộ Châu, Thu Thuỷ, Nguyễn Hiến Lê, Vũ Hạnh
(Ảnh in trong cuốn Nguyễn Hiến Lê Cuộc Đời & Tác Phẩm của Châu Hải Kỳ, tr.60. chụp lại)


Tháp mộ Nguyễn Hiến Lê ở 92 Tôn Đức Thắng, phường Mỹ Bình, thị xã Long Xuyên
(sau này bà Nguyễn Thị Liệp đã dời về tháp chùa Phước Ân, gần ngã tư Cái Bường, xã Vĩnh Thạnh,
huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp)

>>> Xem thêm: 

Sự phát triển Khoa học Phong Thủy 

Thuật Số học và Cuộc sống con người

 

 

1936, 1937, 1944, 1945, 1953, 1966, 1967, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 2013

1936, 1937, 1944, 1945, 1953, 1966, 1967, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 2013

1936, 1937, 1944, 1945, 1953, 1966, 1967, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 2013

1936, 1937, 1944, 1945, 1953, 1966, 1967, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 2013

1936, 1937, 1944, 1945, 1953, 1966, 1967, 1975, 1982, 1983, 1996, 1997, 2004, 2005, 2012, 2013