CHƯƠNG IV
THUẬT NGỮ VÀ QUI TẮC CẦN NHỚ
THUẬT NGỮ:
Dịch là một môn học có một số thuật nữ và qui tắc mà chúng ta phải nhớ cũng như nhớ các định nghĩa, định đề của môn hình học.
Trong mấy chương trên, dọc giả đã gặp vài ba chục thuật ngữ mà tôi xin kể lại dưới đây:
Lưỡng nghi
Tứ tượng
Bát quái:
Càn
Khôn
Li
Khảm
Cấn
Đoái
Chấn
Tốn
Tiên thiên bát quái
Hậu thiên bát quái
Đơn quái
Trùng quái
Thuần quái
Hỗ quái
Nội quái
Ngoại quái
Cách vạch và xét trùng quái: từ dưới lên
Cách gọi tên thành phần trùng quái: từ trên xuống
Hào:
Dương (cũng gọi là hào thực)
Âm (cũng gọi là hào hư)
Lẻ (tiếng Hán gọi là cơ)
Chẵn (tiếng Hán gọi là ngẫu)
Sơ
Thượng
Bạn lại nên nhớ thế nào là:
Hà đồ
Lạc thư
Thoán (soán)
Tượng
Từ (như Thoán từ)
Truyện (như Đại tượng, tiểu tượng truyện)
Có tất cả mấy truyện, tên và nội dung mỗi truyện.
Tôi đã để trắng cả hàng, sau mỗi thuật ngữ, để nếu bạn quên nghĩa thì tìm lại ở những trang trên rồi hoặc ghi số trang, hoặc tóm tắt định nghĩa vào chỗ để trắng cho dễ tìm, dễ nhớ.
*
Trong chương này tôi sẽ giảng thêm một số thuật ngữ và ít qui tắc chính của môn Dịch học.
Hào cửu – Hào lục.
Trong một trùng quái, hào dương (vạch liền) còn gọi là hào cửu . Hào âm (vạch đứt) còn gọi là hào lục.
Ví dụ: quẻ Thủy hỏa Ki tế và quẻ Hỏa Thủy Vị tế
Thủy hỏa Ki tế Hỏa thủy Vị tế
Những chữ cửu và lục hai quẻ trong đó không có nghĩa là 9 và 6 mà chỉ có nghĩa là dương, âm.
Hào dưới cũng là quẻ Ki Tế và quả Vị Tế (cũng như mọi quẻ khác) gọi là hào sơ (tức hào đầu tiên), nhưng bên Ki Tế, nó là hào dương, nên gọi là Sơ cửu (nghĩa là hào sơ mà là dương); còn bên Vị Tế, nó là hào âm, nên gọi là Sơ lục (nghĩa là hào sơ mà là âm).
Hào thứ nhì từ dưới lên, gọi là hào nhị, bên Ki Tế nó là âm cho nên gọi là Lục nhị; còn bên Vị Tế nó là hào dương, nên gọi là Cửu nhị.
Hào trên cùng, gọi là hào thượng, bên Ki Tế nó là hào âm nên gọi là thượng lục; còn bên Vị Tế nó là hào dương, nên gọi là thượng cửu.
Các hào khác cũng vậy, cứ gặp chữ cửu thì bạn đổi ngay ra dương, gặp chữ lục thì đổi ngay ra âm.
Do lẽ chữ lục trong các hào đã có nghĩa là âm rồi, nên hào trên cùng, tức hào thứ sáu, không gọi là lục (sáu) nữa, mà gọi là thượng cho khỏi lầm.
Sự gọi tên hào như vậy rắc rối cho những người mới đọc Kinh Dịch, cho nên trong phần sau (dịch các quẻ) chúng tôi không dùng, mà gọi là hào 1, hào 2, 3, 4, 5, 6 cho dễ hiểu. Tuy nhiên, đọc giả có thể đọc các sách khác về Kinh Dịch, nên không thể không biết nghĩa hai thuật ngữ cửu, lục đó được.
Nhưng tại sao hào dương lại gọi là cửu, hào âm lại gọi là lục? Có 3 thuyết, tôi chỉ xin dẫn thuyết thông dụng nhất.
Hệ từ thượng truyện, Chương 9 bảo dương (trời) có năm số: 1, 3, 5, 7, 9 (đều lẻ cả), âm (đất) có năm số: 2, 4, 6, 8, 10 (đều chẵn cả).
Dương thì kể thuận: ba số sanh là 1, 3, 5, hai số thành là 7, 9.
Âm thì kể nghịch (từ số 10 lên ngược tới số 2): ba số thành là 10, 8, 6, hai số sanh là 4, 2.
Vậy số thành cuối cùng của dương (lão dương) là 9, mà số thành cuối cùng của âm (lão âm) là 6; do đó gọi dương là cửu, gọi âm là lục, chứ không phải cửu là hào thứ 9, lục là hào thứ 6.
Thuyết đó đúng hay không, tôi không biết; mà nhớ hay quên, tôi cho là cũng không quan trọng.
Dụng cửu – Dụng lục:
Riêng quẻ Thuần càn, ngoài sáu hào, còn có hào (?) dụng cửu; và riêng quẻ Thuần khôn, ngoài sáu hào, còn có hào (?) dụng lục. Chúng tôi ghi lại đây, và để qua phần sau, khi dịch hai quẻ đó sẽ xét mới hiểu được.
Tứ đức: đọc các quẻ trong phần sau, chúng ta sẽ gặp những chữ này: nguyên, hanh, lợi trinh; mà Chu Dịch gọi là tứ đức, có thể hiểu là bốn đặc tính của các quẻ.
Nói là của các quẻ, nhưng theo Tiền Cơ Bác trong cuốn Chu Dịch giải đề cập kỳ độc pháp (Thương vụ ấn thư quán) thì chỉ có 7 quẻ có đủ tứ đức, cón những quẻ khác thì chỉ được 3 đức hoặc 2 đức, hoặc 1 đức, có khi không được đức nào. Mà trong 7 quẻ có đủ tứ đức chỉ duy có quẻ Càn là bốn đức được hoàn toàn, còn sáo quẻ kia tuy cũng có tứ đức mà bị hạn chế ít nhiều, nghĩa là phải có điều kiện nào đó, gặp hoàn cảnh nào đó mới có được tứ đức nào đó.
a) Ý nghĩa thông thường của tứ đức đó như sau:
Nguyên là đầu tiên, lớn, trùm mọi điều thiện.
Hanh là hanh thông, thuận tiện, tập hợp các điều hay.
Lợi là nên, thoả thích, hoà hợp các điều phải.
Trinh là chính, bền chặt, gốc của mọi việc.
b) Dưới đây tôi ghi thêm một số ý nghĩa khác. Xét theo đạo người thì nguyên thuộc về đức nhân, hạnh thuộc về đức lễ, lợi thuộc về đức nghĩa, trinh thuộc về đức trí.
Đó là quan niệm của nhà Nho.
c) Riêng về quẻ Càn (trời) thì có nhà cho rằng nguyên thuộc về mùa xuân (phát sinh vạn vật), hanh thuộc về mùa hạ (vạn vật nảy nở), lợi thuộc về mùa thu (vạn vật thành thục), trinh thuộc về mùa đông (vạn vật kết thúc tốt đẹp).
Phùng Hữu Lan trong Tâm lý học đã phát huy thêm quan niệm đó mà cho Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh là bốn trình tự trong sự diễn tiến của Càn, hay là cái động lực vận hành tạo nên sinh mệnh:
“Nguyên là đầu, trỏ cái khởi đoạn phát động của sinh mệnh, nghĩa là cái trạng thái của vật khi bắt đầu vào cuộc sống.
Hanh là hanh thông, là thông đồng. Khi sinh mệnh của vật đã hiển nhiên trong thực tế, tương thông với ngoại giới thì trạng thái của nó lúc đó gọi là hanh.
Lợi là thuận lợi, là trạng thái của sinh vật khi tương thông với ngoại giới, nó đã thích ứng được với hoàn cảnh.
Trinh là thành tựu hẳn hoi, tức là trạng thái của sinh vật ví thích ứng được với hoàn cảnh một cách thuận lợi mà đã hình thành một cách tốt đẹp” (Đại cương triết học Trung Quốc – Thượng – trang 170 – Cảo Thơm).
d) Tào Thăng trong Chu Dịch Tân Giải (sách đã dẫn) cũng giải nghĩa đại khái như vậy, nhưng cho nguyên, hanh, lợi trinh chẳng phải chỉ là trình tự hình thành của sinh mệnh, mà của cả vũ trụ kia. Ông bảo:
“Nguyên là hồi càn và khôn mới giao với nhau chứ chưa biến hoá.
Hanh là lúc càn, khôn đã giao với nhau rồi mà thông với nhau.
Lợi là lúc càn, khôn điều hoà nhau mà biến hoá.
Trinh là giai đoạn càn, khôn đã biến hoá xong rồi và định vị”
(Càn, khôn đã có cái “vị” nhất định rồi, không thay đổi nữa).
Theo Can Hạnh trong Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chú thì tất cả những cách giải thích kể trên đều là của người sau cả, chứ mới đầu, Kinh Dịch chỉ dùng để bói thì ý nghĩa nguyên, hanh, lợi, trinh khác hẳn:
đ) Nguyên là lớn. Hanh tức là chữ hưởng. Người xưa khi cử hành một cuộc cúng tế lớn (đại hưởng chi tế), bốc sư gặp quẻ Càn thì chép là nguyên hưởng (hưởng lớn).
Lợi, trinh tức là lợi chiêm. Bốc sư gặp quẻ Càn thì cho là làm việc tất có lợi, cho nên chép là lợi trinh.
Trong phần Dịch, chúng tôi theo cách giải thích a) thông thường nhất.
Cát: (một quẻ cát) nghĩa là tốt lành.
Hung: ngược lại với vát, xấu nhất.
Hối: là lỗi, ăn năn.
Lận: là lỗi nhỏ, tiếc.
Vô cữu: là không có lỗi hoặc lỗi không về ai cả.
*
QUI TẮC:
Ý nghĩa và tương quan của nội, ngoại quái:
Mỗi trùng quái tuy gồm hai đơn quái chồng lên nhau, nhưng chỉ diễn tả một tình trạng, một sự việc, một biến cố hay một hiện tượng; vậy nội quái và ngoại quái có tương quan mật thiết với nhau.
Tương quan đó ra sao? Có hai thuyết:
- Thuyết thứ nhất được nhiều người chấp nhận nhất, thường thấy nhất trong Kinh Dịch, là sự diễn tiến tuần tự về thời gian: hào sơ là bước đầu mà hào thượng là bước cuối, các hào ở giữa là các giai đoạn trung gian.
Điều đó ta thấy rất rõ trong quẻ Thuần Càn. Dù hiểu Càn là đạo trời hay đạo của người, thì chúng ta cũng thấy cái luật diễn tiến lần lần từ lúc mới sinh ra vạn vật rồi tới lúc vạn vật biến hoá, thành thục, hoà hợp, thịch cực rồi suy (đó là đạo trời); hoặc diễn tiến từ lúc người quân tử còn ẩn dật, tu đức để chờ thời, tới lúc bắt đầu xuất hiện nhưng vẫn phải tiếp tục tu dưỡng, giữ vững chí mình, xem xét thời cơ mà hành động chứ không nên vội vàng, sau mới làm được sự nghiệp lớn, và khi xong sự nghiệp rồi thì nên lui về, nhường cho người khác.
Không nói chi quẻ Thuần Càn, nội quái và ngoại quái như nhau: những quẻ Hàm, Cấn, Sư, Đỉnh, Tiệm, Thái, Li, Phệ, Hạp, Bí, Bác... mà nội quái khác ngoại quái, thì cũng vậy: những hào ở ngoại quái diễn tiếp những trình tự trong nội quái.
Chẳng hạn quẻ Hàm: hào 1 là ngón chân, hào 2 là bắp chân, hào 3 là đùi, hào 4 là tim, hào 5 là lưng, hào 6 là mép, lưỡi, sự cảm nhau tiến lần lần như từ ngón chân lên đến mép, lưỡi.
Quẻ Cấn cũng vậy: sự ngăn cản từ hào 1, ngón chân rồi tiến lần lần lên bắp chân, lưng quần, giữa thân mình, mép (hào 5).
Quẻ Tiệm là tiến lần lần: hào 1, con chim hồng tiến tới bờ nước, hào 2 nó lên phiến đá ở bờ, hảo 3 nó lên tới đất bằng, hào 4 nó nhảy lên cành cây, hào 5 nó lên tới gò cao, và hào cuối cùng, nó bay bổng lên trời.
- Thuyết thứ nhì của Ch’u Chai và Winberg Chai trong phần giới thiệu cuốn I Ching (bản dịch của J. Legge).
Mỗi đơn quái có ba hào thì hào 1 có ý nghĩa nên dè dặt vì là bước đầu, hào 3 có ý nghĩa phải đề phòng vì là lúc cùng cực, chỉ hào 2 là có ý nghĩa nên hoạt dộng.
Mỗi trùng quái cũng vậy:
Cặp 1 và 6: bất biến, vì là bước đầu và bước cuối.
Cặp 3 và 4: thay đổi, bấp bênh vì càn ở nội quái chưa lên ngoại quái (hào 3) hoặc mới lên ngoại quái (hào 4).
Chỉ cặp 2 và 5 có nhiều tác động.
- Thuyết thứ ba, ít người áp dụng, tôi mới thấy J. Lavier trình bày trong cuốn Le Livre de la terre et du ciel, cho rằng tương quan giữa nội quái và ngoại quái là tương quan nhân quả.
Nội quái diễn cái nhân:
Hào 1 là thực thể (substance) của nhân.
Hào 2 là biểu thị (manifestation) của nhân).
Hào 3 là đặc tính (essence) của nhân.
Ngoại quái diễn cái quả:
Hào 4 là thực thể của quả.
Hào 5 là biểu thị của quả.
Hào 6 là đặc tính của quả.
Như vậy hào 4 là cái quả cùa hào 1, hào 5 là cái quả của hào 2, hào 6 là cái quả của hào 3.
Tôi không biết thuyết đó có phải của Đạo gia hay không, chắc chắn không phải của Dịch học phái thời Chiến quốc, Hán sơ.
Tôi còn thấy có sách nói quẻ đơn sở dĩ có ba hào vì người đầu tiên vạch ra muốn có đủ tam tài (ba ngôi): trời, đất, người. Hào dưới cùng là đất, hào trên cùng là trời, hào giữa là người.
Do đó quẻ trùng có 6 hào thì hai hào ở dưới cùng cùng là đất, hai hào trên cùng là trời, hai hào ở giữa là người.
Thuyết này cũng ít khi thấy áp dụng.
Ý NGHĨA CÁC HÀO
Trung – Chính:
Dưới đây là một số qui tắc rất quan trọng, có thể nói là quan trọng nhất trong Dịch, trong nhân sinh quan của Trung Hoa, chúng ta nên nhớ kỹ.
Trước hết chúng ta phải phận biệt bản thế, tính cách của hào, và vị trí của hào.
Hào chỉ có hai loại: dương và âm. Đó là bản thể của hào.
Tính cách của dương là: đàn ông cương cường, thiện, đại, chính, thành thực, quân tử, phú quí.
Tính cách của âm là: đàn bà, nhu thuận, ác (xấu, trái với thiện), tà ngụy (trái với thành thực), tiểu nhân, bần tiện...
Như vậy, dương tốt đẹp, âm xấu xa. Nhưng đó chỉ là xét chung. Còn phải xét vị trí của hào nữa, mới định được là tốt hay xấu. Dù là hào dương mà vị trí không trung, chính thì cũng xấu; dù là hào âm mà vị tí trung chính thì cũng vậy.
Thế nào là trung?
Nội quái có 3 hào: 1 là sơ, 2 là trung, 3 là mạt.
Ngoại quái cũng có ba hào: 4 là sơ, 5 là trung, 6 là mạt. Vậy trung là những hào ở giữa nội quái và ngoại quái, tức hào 2 và hào 5, dù bản thể của hào dương hay âm thì cũng vậy.
Thế nào là chính?
Trong 6 hào, những hào số lẻ 1, 3, 5 có vị trí dương; những hào số chẵn 2, 4, 6 vị trí âm.
Một hào bản thể là dương (nghĩa là một vạch liền) ở vào một vị trí dương thì là chính, ở vào một vị trí âm thì là bất chính. Một hào bản thể là âm (nghĩa là một vạch đứt) ở vào một vị trí âm thì mới gọi là chính, nếu ở vào một vị trí dương thì là bất chính.
Ví dụ quẻ Thuần Càn: sáu hào đều là hào dương cả (về bản thể), hào 2 và 5 đều trung, nhưng hào 2 không chính, chỉ hào 5 mới được cả trung lẫn chính, vì hào 2 là dương ở vị trí âm (hào chẵn) mà hào 5 là hào dương ở vị trí dương (hào lẻ).
Bốn hào kia thì hào 1 và 3 đắc chính mà không đắc trung; hào 4 và 6 không đắc chính cũng không đắc trung.
Do đó hào 5 quẻ Càn là hào tốt nhất trong quẻ, mà danh từ “cửu ngũ” (cửu là dương, ngũ là hào thứ 5, dương) trỏ ngôi vua, ngôi chí tôn.
6 không chính cũng không trung.
5 vừa trung vừa chính.
4 không chính cũng không trung.
3 chính mà không trung.
2 trung mà không chính.
1 chính mà không trung.
Một thí dụ nữa, quẻ Thủy hỏa Kí tế:
6 chính mà không trung.
5 vừa trung vừa chính.
4 chính mà không trung.
3 chính mà không trung.
2 vừa trung vừa chính.
1 chính mà không trung.
Trong 64 quẻ, không có quẻ nào mà hào nào cũng tốt, ít nhiều có được một đức hoặc trung, hoặc chính, có hào (5) được cả hai, như quẻ này, cho nên mới có nghĩa là Kí tế: đã nên việc, đã xong, đã qua sông.
Quẻ này cũng có hào “cửu ngũ” nhưng ở đây, nó không trỏ ngôi vua, vì ở trong quẻ Càn, quẻ quí nhất (tượng trưng trời) đứng đầu 64 quẻ nó mới thực có giá trị lớn. Ở quẻ Kí tế trỏ việc đời nó chỉ tương đối có giá trị thôi.
Quan niệm trung chính là quan niệm căn bản của Dịch, cho nên Trương Kì Quân bảo: “Dịch là gì? Chỉ là trung, chính mà thôi. Đạo lý trong thiên hạ chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính,”
Thời – Vị trí của mỗi hào còn cho ta biết thời của mỗi hào nữa, vì như trên chúng ta đã biết, hào 1 là sơ thời, hào 3 là mạt thời của nội quái, hào 4 là sơ thời, hào 6 là mạt thời của ngoại quái, cũng là mạt thời của trùng quái.
Xét về phương diện tĩnh thì là vị trí chính hay không chính, xét về phương diện động thì là cập thời hay không cập thời.
Ví dụ: quẻ càn, hào sơ, dương ở dương vị, là đức chính, nhưng vì là hào sơ, chỉ mới có đức thôi, chưa có tiếng tăm, mà tài đức cũng chưa cao, nên còn phải ở ẩn, nếu hấp tấp mà vội xuất đầu lộ diện thì là bất cập thời, bất hợp thời.
Lên hào 2, mới nên xuất hiện (nhưng chưa nên làm gì), như vậy là cập thời, hợp thời.
Lên hào 5, vừa trung vừa chính, tài đức đã trau dồi lâu rồi, là lúc làm nên sự nghiệp, làm là cập thời, không làm là bỏ lỡ thời cơ.
Tới hào 6, hào cuối cùng, thịnh cực rồi tất phải suy, không biết kịp thời rút lui thì sẽ bị hoạ.
Vì vậy quan niệm thời còn quan trọng hơn quan niệm trung chính nữa, và Tiết Tuyên nói rất đúng:
“Sáu mươi bốn quẻ chỉ là một lẻ, một chẵn (một dương, một âm); mà vì ở vào những thời khác nhau, cái “vị” (trí) không giống nhau, cho nên mới có vô số sự biến. Cũng như con người, chỉ có động với tĩnh, mà vì “thời” và (địa” “vị” không giống nhau, cho nên có cái đạo lý vô cùng; vì thế mới gọi là dịch (biến dịch)”.